,

Thủy sản

Tuyên Quang nâng cao hiệu quả nuôi cá lồng trên sông, hồ kết hợp với du lịch văn hóa

Tuyên Quang có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển nuôi cá lồng trên sông, hồ. Những năm qua, nhờ sự quan tâm của chính quyền địa phương, nghề nuôi cá lồng mang lại hiệu quả khá cao, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng NTM.

Nuôi cá lồng trở một thành nghề

Tại Tọa đàm Nông nghiệp “Giải pháp nâng cao hiệu quả nuôi cá lồng trên sông, hồ” diễn ra mới đây tại Tuyên Quang, ông Nguyễn Xuân Hùng, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Tuyên Quang, cho biết, Tuyên Quang có mạng lưới sông, suối khá dày đặc và phân bố tương đối đều tại các huyện, thành phố với trên 12.000ha mặt nước có khả năng nuôi thủy sản, trong đó có trên 8.000ha mặt nước hồ thủy điện. Đặc biệt, thiên nhiên đã ban tặng cho Tuyên Quang khu hệ cá trên sông phong phú và đa dạng, trong đó có các loài cá đặc sản có giá trị kinh tế cao như: dầm xanh,Anh vũ,  chiên, lăng, bỗng...

Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Sở Nông nghiệp - PTNT Tuyên Quang thăm mô hình nuôi cá lăng chấm trên lòng hồ thủy điện Tuyên Quang.

Hiện nay, nghề nuôi cá đem lại lợi nhuận khá cao, nên người dân thường nói: “Thứ nhất nuôi cá, thứ nhì gá bạc”. Toàn tỉnh có 2.255 lồng cá, trong đó trên hồ thủy điện 1.700 lồng, trên sông 555 lồng  (trong đó số lồng nuôi cá đặc sản, cá chủ lực chiếm 50% tổng số lồng). Sản lượng thủy sản năm 2021 đạt 10.091 tấn, trong đó sản lượng cá đặc sản đạt 854 tấn; 6 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản ước đạt trên 4.800 tấn.

Trao đổi với phóng viên, TS. Hạ Thúy Hạnh, Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cho biết, trước đây, bà con nuôi cá lồng theo phương pháp truyền thống, khi Trung tâm Khuyến nông Quốc gia với Trung tâm Khuyến nông tỉnh và Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản Tuyên Quang triển khai, phối hợp nuôi cá lồng trên lòng hồ, ngoài việc lựa chọn con giống phù hợp, bà con còn được hướng dẫn từ khi xây dựng các lồng bè làm sao tránh được bão lũ đến sử dụng thức ăn dinh dưỡng theo từng lứa tuổi, trọng lượng cá, kỹ thuật  làm sạch môi trường lồng nuôi, cũng như hướng dẫn sử dụng các chế phẩm sinh học để đạt nâng cao hiệu quả cao nhất.

“Đặc biệt, trong quản lý dịch bệnh mà Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh triển khai, chúng tôi đánh giá, quản lý dịch bệnh rất tốt nên tỷ lệ hao hụt thấp, chỉ 2/1.000, đây là tỷ lệ tối ưu. Cùng với đó, hiệu quả kinh tế mang lại đạt khá cao. Ngoài ra, nhờ làm tốt công tác liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nên bà con yên tâm chăm sóc, nuôi dưỡng. Nhờ liên kết, đầu vào có nguồn giống chất lượng, đầu ra  tiêu thụ ổn định, đã mang lại giá trị kinh tế bền vững cho người dân”, bà Hạnh đánh giá.

Bà Phạm Thị Hoài, Giám đốc HTX Thủy sản Làng Chài (Na Hang - Tuyên Quang), cho biết, khi tham gia chương trình do Trung tâm Khuyến nông thực hiện, chúng tôi được hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ một phần lãi suất, ngoài ra còn được hỗ trợ đi tham quan học hỏi các mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao. HTX hiện có 7 thành viên với gần 200 lồng cá, sản lượng gần 200 tấn/năm, trong đó nuôi cá lăng là chủ yếu. Đầu ra tương đối ổn định, thị trường tiêu thụ chính ở Hà Nội. Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên giá trị kinh tế đạt thấp; năm nay, giá bán đạt 100.000-120.000 đồng/kg, trừ chi phí, người nuôi còn lãi 40.000-50.000 đồng/kg.

Giải pháp nâng cao  hiệu quả

Kết quả đạt được là vậy, nhưng Tuyên Quang cần có những giải pháp để nâng cao hơn nữa giá trị từ nghề nuôi cá lồng trên sông, hồ. Về vấn đề này, ông Nguyễn Xuân Hùng, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Tuyên Quang, cho biết, thời gian tới, tỉnh tiếp tục triển khai, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng mặt nước hồ thủy lợi, thủy điện và các sông, suối trên địa bàn; duy trì số lượng lồng nuôi cá hiện có, dần hình thành và phát triển nghề nuôi cá lồng trên sông, hồ thủy điện theo hướng sản xuất hàng hóa; khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư phát triển nuôi cá lồng theo tiêu chuẩn VietGAP với các loại lồng nuôi có kích thước lớn nhằm nâng cao năng suất, sản lượng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng; tăng diện tích nuôi và tỷ lệ lồng nuôi các loài cá bản địa quý hiếm có giá trị kinh tế cao; nuôi thâm canh, bán thâm canh đối với các loại cá thông thường.

Đến năm 2021, Tuyên Quang có 10 cơ sở nuôi trồng thủy sản được cấp chứng nhận VietGAP, 15 sản phẩm được công nhận, xếp hạng OCOP; có 02 cơ sở được Bộ Nông nghiệp và PTNT đưa vào danh sách địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch.

Năm 2017, sản phẩm cá lăng được bình chọn danh hiệu Thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam.

Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 03 ngày 16/7/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang về chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản hàng hóa, sản phẩm OCOP và xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, trong đó có hỗ trợ tổ chức, cá nhân vay vốn lãi suất để phát triển nuôi cá đặc sản, chủ lực trong lồng trên sông, hồ thủy điện, hồ thủy lợi.

Ông Nguyễn Trọng Đoan, Phó chủ tịch UBND huyện Na Hang cho biết, huyện đã xây dựng, ban hành Đề án Phát triển thủy sản trên địa bàn giai đoạn 2021-2025 phù hợp với Quy hoạch phát triển thủy sản tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2021-2025; thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra mục tiêu đến năm 2025, riêng nuôi lồng trên lòng hồ thủy điện khoảng 1.200 lồng (65% lồng cá đặc sản, cá có giá trị kinh tế cao, 35% lồng truyền thống), sản lượng nuôi đạt trên 2.400 tấn.

Theo lãnh đạo Công ty TNHH MTV Thủy sản Nhật Nam (TP. Tuyên Quang), cần lựa chọn và xác định một số sản phẩm thủy sản chủ lực, có ưu thế cạnh tranh để tổ chức sản xuất theo các quy trình, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm tiến tới xây dựng thương hiệu bền vững cho sản phẩm. Cùng với đó, phải xây dựng được chuỗi liên kết, trong đó doanh nghiệp làm đầu mối tổ chức sản xuất theo kế hoạch và thực hiện việc bao tiêu sản phẩm để ổn định thị trường, giá thành sản phẩm trong nội tỉnh trước khi đưa ra thị trường khác.

TS. Hạ Thúy Hạnh cho biết, để phát triển kinh tế nuôi cá trên lòng hồ kết hợp với du lịch văn hóa, UBND tỉnh Tuyên Quang, huyện Na Hang nên có cơ chế, chính sách đặc thù, trong đó ưu tiên lựa chọn được những loại cá phù hợp với thị hiếu của thị trường, có gói kỹ thuật để hỗ trợ người nuôi.

Thực hiện Chương trình xây dựng NTM, người dân cũng nên có sự gắn kết nuôi cá trên lòng hồ với du lịch văn hóa truyền thống, văn hóa vùng miền để nâng cao thu nhập. Vừa sản xuất nông nghiệp gắn với xây dựng NTM, gắn với du lịch bản địa, đây là yếu tố đa giá trị từ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, tỷ lệ người dân tộc ở Tuyên Quang nói chung, Na Hang nói riêng rất lớn, làm sao đề ra chính sách hỗ trợ, giải pháp kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật có cả tiếng dân tộc để bà con tiếp cận kỹ thuật một cách nhanh nhất, tốt nhất, hiệu quả nhất.

Báo Kinh tế nông thôn

Tin cùng chuyên mục